昔與斫山衕客共住,霖雨十日,對床無聊,因約賭說快事以破積悶。至今相距既二十年,亦都不自記憶,偶因讀《西廂》至《拷艷》一篇,見紅娘口中作如許快文,恨當時何不檢取共讀,何積悶之不破?於是反自追索,猶憶得數則,附之左方,並不能辨何句是斫山語,何句是聖嘆語矣。
[Hồi xưa cùng Trác Sơn, cùng ở trọ đất khách, mưa dầm mười ngày, nằm nhìn nhau buồn rứt. Nhân thi nhau nói những chuyện sướng để cho lòng đỡ bạo bực. Đến nay đã cách hai mươi năm cũng không còn nhớ nữa. Nhân đọc chương “Khảo hoa” ở Mái Tây, thấy miệng con Hồng nói ra bao nhiêu câu sướng miệng, nghĩ lại tiếc bấy giờ sao không lục ra cùng đọc thì buồn đến đâu mà chả phải tan. Vì thế bèn cố nhớ lại, còn ghi được mấy điều phụ chép dưới đây, cũng không còn phân biệt được câu nào là của Trác Sơn, câu nào là của Thánh Thán nữa.]
其一:夏七月,赤日停天,亦無風,亦無雲;前後庭赫然如洪爐,無一鳥敢來飛。汗出遍身,縱橫成渠。置飯於前,不可得喫。呼簟欲臥地上,則地濕如膏,蒼蠅又來緣頸附鼻,驅之不去。正莫可如何,忽然大黑車軸,疾澍澎湃之聲,如數百萬金鼓。簷溜浩於瀑布。身汗頓收,地燥如掃,蒼蠅盡去,飯便得吃。不亦快哉!
1. Mùa hè qua tháng bảy, mặt trời đỏ ngang trời. Gió cũng không. Mây cũng không. Sân trước, sân sau, nắng chói như lò lửa. Không một con chim nào dám bay. Bồ hôi ra khắp mình, ngang dọc thành rãnh nước. Cơm để trước mặt không sao nuốt được. Gọi chiếu muốn nằm xuống thì đất ướt như mỡ. Ruồi xanh lại xúm đến, leo lên cổ, đậu lên mũi, đuổi chẳng buồn đi. Đương lúc không biết làm thế nào được, bỗng mây đen kéo kín, tiếng rầm rầm rộ rộ nghe như có trăm vạn chiêng trống. Mái tranh chảy như thác. Bồ hôi trên mình biến mất. Đất ráo như lau. Ruồi bay hết. Cơm ăn thấy ngon miệng. Chẳng cũng sướng sao?
其二:十年別友,抵暮忽至。開門一揖畢,不及問其船來陸來,並不及命其坐床坐榻,便自疾趨入內,卑辭叩內子:「君豈有鬥酒如東坡婦乎?」內子欣然拔金簪相付。計之可作三日供也。不亦快哉!
2. Người bạn xa mười năm, thình lình đến vào chiều hôm. Mở cửa chào nhau xong, chẳng kịp hỏi đi thuyền hay đi bộ, cũng chẳng kịp mời ngồi ghế hay ngồi giường. Hàn huyên qua loa, liền chạy mau vào nhà trong, sẽ hỏi mẹ đĩ: “Mình có được như là Đông Pha, sẵn có rượu để dành không?” Mẹ đĩ tươi cười, rút cành trâm vàng đưa cho. Tính ra có thể thết khách được ba ngày. Chẳng cũng sướng sao?
其三:空齋獨坐,正思夜來床頭鼠耗可惱,不知其戛戛者是損我何器,嗤嗤者是裂我何書。中心回惑,其理莫措,忽見一狻貓,注目搖尾,似有所瞷。歛聲屏息,少復待之,則疾趨如風,唧然一聲。而此物竟去矣。不亦快哉!
3. Phòng không ngồi một mình, đương đêm nghe qua tiếng chuột bực quá. Không biết nó sồn sột gặm nát cái gì của mình? Soàn soạt xé rách sách nào của mình? Trong lòng bồi hồi, chưa nghĩ ra sao. Bỗng thấy con mãn (*01) đẹp, chú mắt, vẫy đuôi, như đã trông thấy vật gì. Nín tiếng nín hơi, đợi chờ chốc lát, thì thấy nó chồm nhanh như gió, “chí” một tiếng, con vật đó đã chết rồi. Chẳng cũng sướng sao?
(*01) con mãn: nguyên văn "miêu" 貓 nghĩa là con mèo.
其四:於書齋前,拔去垂絲海棠紫荊等樹,多種芭蕉一二十本。不亦快哉!
4. Trước phòng sách, nhổ những cây tử kinh, cây thùy ty hải đường đi, trồng thêm vài chục gốc chuối. Chẳng cũng sướng sao!
其五:春夜與諸豪士快飲,至半醉,住本難住,進則難進。旁一解意童子,忽送大紙砲可十餘枚,便自起身出席,取火放之。硫磺之香,自鼻入腦,通身怡然。不亦快哉!
5. Đêm xuân cùng các tay hào uống đã nửa say, thôi đã khó thôi, thêm cũng khó thêm. Bên cạnh bỗng có đứa trẻ hiểu ý, đưa vào hơn chục pháo chuột. Liền đứng dậy ra ngoài tiệc, lấy lửa đốt chơi. Mùi lưu hoàng xông từ mũi vào tận óc, khắp người khoan khoái. Chẳng cũng sướng sao!
其六:街行見兩措大執爭一理,既皆目裂頸赤,如不戴天,而又高拱手,低曲腰,滿口仍用者也之乎等字。其語剌剌,勢將連年不休。忽有壯夫掉臂行來,振威從中一喝而解。不亦快哉!
6. Qua phố thấy hai bác đồ gàn, cãi nhau về một chuyện. Cả hai đều đỏ mặt tía tai, tưởng chừng không đội trời chung. Thế mà còn chắp tay lên, khom lưng xuống, đầy mồm “chi, hồ, dã, giả”… Câu chuyện kéo dài, có thể mấy năm không xong. Bỗng có tay tráng sĩ vung tay đi lại, ra oai quát một tiếng, thế là nín thít. Chẳng cũng sướng sao?
其七:子弟背誦書爛熟,如瓶中瀉水。不亦快哉!
7. Nghe học trò đọc bài, thuộc trơn như dốc nước ở bình ra, chẳng cũng sướng sao!
其八:飯後無事,入市閒行,見有小物,戲復買之,買亦已成矣,所差者甚少,而市兒苦爭,必不相饒。便掏袖下一件,其輕重與前直相上下者,擲而與之。市兒忽改笑容,拱手連稱不敢。不亦快哉!
8. Cơm xong vô sự, đi rong vào chợ. Thấy có món đồ vặt, nghịch lại mua chơi. Mua xong rồi, tiền đưa chẳng thiếu là bao, mà chú lái kỳ kèo, nhất định không chịu. Nhân móc trong túi, lấy một cục bạc cũng suýt soát bằng cục đưa trả trước, ném đưa cho cả. Chú lái bỗng đổi ra vẻ tươi cười, chắp tay “không dám” luôn mãi. Chẳng cũng sướng sao!
其九:飯後無事,翻倒敝篋。則見新舊逋欠文契不下數十百通,其人或存或亡,總之無有還理。背人取火拉雜燒淨,仰看高天,蕭然無雲。不亦快哉!
9. Cơm xong vô sự, lục lộn hòm bát, thấy các văn tự nợ mới cũ, có đến mấy trăm bức. Những người thiếu nợ đó, hoặc chết rồi, hoặc còn sống, tóm lại đều không sao trả nổi. Vắng người liền lấy lửa, trộn lộn đốt sạch. Ngẩng nhìn trời cao, vắng ngắt không mây. Chẳng cũng sướng sao!
其十:夏月科頭赤足,自持涼繖遮日,看壯夫唱吳歌,踏桔槔。水一時湥湧而上,譬如翻銀滾雪。不亦快哉!
10. Ngày hè trần đầu, trần chân, tự cầm chiếc ô che nắng, xem bọn lực điền vừa hát ngao, vừa đạp guồng nước. Nước nhất thời cuồn cuộn tuôn lên như tuyết tan, bạc lộn. Chẳng cũng sướng sao!
其十一:朝眠初覺,似聞家人嘆息之聲,言某人夜來已死。急呼而訊之,正是一城中第一絕有心計人。不亦快哉!
11. Ngủ sớm vừa dậy, hình như nghe tiếng người nhà than thở, nói chàng nọ chết đêm qua. Vội gọi hỏi xem, thì là một tay khôn vặt nhất trong cả một thành. Chẳng cũng sướng sao!
其十二:夏月早起,看人於松棚下,鋸大竹作筩用。不亦快哉!
12. Tháng hè dậy sớm, xem người ta ở dưới gốc thông, cưa ống bương để làm thùng chứa nước, chẳng cũng sướng sao!
其十三:重陰匝月,如醉如病,朝眠不起。忽聞眾鳥畢作弄晴之聲,急引手搴帷,推窗視之,日光晶熒,林木如洗。不亦快哉!
13. Trời râm suốt tháng, thấy mình như người say, người ốm. Bỗng nghe các giống chim đua hót ra vẻ mừng nắng. Vội đưa tay vén màn, đun cửa sổ trông ra thì thấy ánh mặt trời sáng quắc, cây rừng sạch như rửa, chẳng cũng sướng sao!
其十四:夜來似聞某人素心,明日試往看之。入其門,窺其閨,見所謂某人,方據案面南看一文書。顧客入來,默然一揖,便拉袖命坐曰:「君既來,可亦試看此書。」相與歡笑,日影盡去。既已自饑;徐問客曰:「君亦饑耶?」不亦快哉!
14. Đêm nghe nói người nọ là người khá, sáng ngày thử sang chơi. Bước qua cổng, nhìn vào nhà, thì thấy người ấy đương tựa bàn quay về phía Nam, xem một cuốn văn. Thấy khách vào, lẳng lặng chào xong, liền kéo áo mời ngồi mà rằng: “Bác đã đến đây, cũng nên coi thử cuốn sách này.” Cùng nhau vui cười, đến mãi khi ánh nắng đi hết. Chủ đã đói bụng, liền thong thả hỏi khách: “Bác cũng đói rồi chứ!” Chẳng cũng sướng sao!
其十五:本不欲造屋,偶得閒錢,試造一屋。自此日為始,需木,需石,需瓦,需磚,需灰,需釘,無晨無夕,不來聒於兩耳。乃至羅雀掘鼠,無非為屋校計,而又都不得屋住,既已安之如命矣。忽然一日屋竟落成,刷牆掃地;糊窗掛畫。一切匠作出門畢去,同人乃來分榻列坐。不亦快哉!
15. Vốn không muốn làm nhà, chợt có món tiền để rỗi, liền làm thử mấy gian. Bắt đầu từ hôm ấy, cần gỗ, cần đá, cần ngói, cần gạch, cần vôi, cần đinh, không kể sớm chiều, những chuyện ấy lúc nào cũng nhang nhác ở bên tai. Rồi đến bắt sẻ, hun chuột, cái gì cũng tính toán vì nhà, mà nào đã được nhà ở. Đành yên chịu như là số mệnh vậy. Bỗng dưng một ngày kia, nhà đã lạc thành. Nạo tường, quét đất, dán song, treo tranh, nhất thiết thợ thuyền ra cửa về hết. Bạn hữu đã tới, chia ghế ngồi xuống. Chẳng cũng sướng sao!
其十六:冬夜飲酒,轉復寒甚,推窗試看,雪大如手,已積三四寸矣。不亦快哉!
16. Đêm đông uống rượu, lại thấy lạnh thêm. Mở song thử nhìn, tuyết lớn bằng bàn tay đã xuống dày đến ba, bốn tấc. Chẳng cũng sướng sao!
其十七:夏日於朱紅盤中,自拔快刀,切綠沉西瓜。不亦快哉!
17. Ngày hè trong mâm sơn son, rút dao sắc bổ quả dưa hấu xanh vỏ, chẳng cũng sướng sao!
其十八:久欲為比邱,苦不得公然喫肉。若許為比邱,又得公然喫肉,則夏月以熱湯快刀,淨割頭髮。不亦快哉!
18. Lâu vẫn muốn đi tu, khốn nỗi không được công khai ăn thịt. Ví cho được làm sư, lại được công khai ăn thịt, thì ngày hè lấy nước nóng, dao sắc, gọt sạch tóc đầu. Chẳng cũng sướng sao!
其十九:篋中無意忽檢得故人手跡。不亦快哉!
19. Trong tráp bất ngờ soạn được bức thư của người cũ, chẳng cũng sướng sao!
其二十:存得三四癩瘡於私處,時呼熱湯關門澡之。不亦快哉!
20. Còn ba bốn mụn lở ở chỗ hiểm, thời thường gọi nước nóng, đóng cửa mà rửa, chẳng cũng sướng sao!
其廿一:寒士來借銀,謂不可啟齒,於是唯唯亦說他事。我窺其苦意,拉向無人處,問所需多少。急趨入內,如數給與,然而問其必當速歸料理是事耶,為尚得少留共飲酒耶。不亦快哉!
21. Học trò nghèo đi vay tiền, không dám rỉ răng, lại lần chần nói ra việc khác. Mình xét biết nỗi khổ tâm, kéo ra chỗ vắng người, hỏi cần dùng nhiều ít? Vội vào trong nhà, như số đưa cho. Rồi đó mới hỏi: “Cần về ngay để thu xếp việc ấy, hay có thể ở lại đánh chén đã?” Chẳng cũng sướng sao!
其廿二:坐小船,遇利風,苦不得張帆,一快其心。忽逢艑舸,疾行如風。試伸挽鉤,聊復挽之。不意挽之便著,因取纜纜向其尾,口中高吟老杜「青惜峰巒,共知橘柚」之句;極大笑樂。不亦快哉!
22. Ngồi thuyền nhỏ, gặp gió thuận, khổ nỗi không căng được buồm. Bỗng gặp chiếc thuyền đinh, đi nhanh như gió. Thử đưa câu liêm ra quặc chơi. Không ngờ quặc liền mắc ngay, liền lấy sợi dây, ràng thuyền mình vào đuôi thuyền họ. Miệng ngâm to câu thơ của cụ Đỗ: “Non xanh sườn vàng biết quít chín”, rồi khúc khích cười vang, chẳng cũng sướng sao!
其廿三:久欲覓別居與友人共住,而苦無善地。忽一人傳來雲有屋不多,可十餘間,而門臨大河,嘉樹蔥然。便與此人共喫飯畢,試走看之,都未知屋如何。入門先見空地一片,大可六七畝許,異日瓜菜不足復慮。不亦快哉!
23. Lâu vẫn muốn tìm ở chỗ khác, để cùng ở với người bạn, nhưng khổ không được đất lành. Bỗng có người đồn rằng: có cái nhà chỉ độ hơn mười gian, nhưng cửa quay ra sông cái, chung quanh cây tốt xanh om. Liền cùng người ấy cùng ăn cơm xong, thử chạy thăm xem sao, chưa biết nhà như thế nào, nhưng vào cửa đã thấy một khoảng đất không, rộng đến sáu, bảy mẫu. Mai ngày rau, dưa, không cần phải lo nữa. Chẳng cũng sướng sao!
其廿四:久客得歸,望見郭門,兩岸童婦,皆作故鄉之聲。不亦快哉!
24. Đi vắng lâu mới về, xa trông thấy cửa thành, đàn bà, trẻ con hai bên đường, đều nói tiếng quê nhà, chẳng cũng sướng sao!
其廿五:佳磁既損,必無完理。反覆多看,徒亂人意。因宣付廚人作雜器充用,永不更令到眼。不亦快哉!
25. Món đồ sứ đẹp đã sứt mẻ, chả còn cách gì hàn gắn, xem đi ngắm lại chỉ thêm rối ruột. Nhân giao cho nhà bếp dùng làm đồ đựng vặt không bao giờ lại qua mắt nữa, chẳng cũng sướng sao!
其廿六:身非聖人,安能無過。夜來不覺私作一事,早起怦怦,實不自安。忽然想到佛家有布薩之法,不自覆藏,便成懺悔,因明對生熟眾客,快然自陳其失。不亦快哉!
26. Mình không phải là thánh sao cho khỏi có lỗi. Đêm qua lén làm một việc, sớm dậy áy náy trong lòng không yên. Chợt nhớ nhà Phật có phép bố tát: "Không hề giấu diếm, tức là sám hối." Nhân tự đem lỗi mình nói phăng cho tất cả khách quen khách lạ đều biết, chẳng cũng sướng sao!
其廿七:看人作擘窠大書,不亦快哉!
27. Xem người viết đại tự, chẳng cũng sướng sao!
其廿八:推紙窗放蜂出去,不亦快哉!
28. Mở cánh song giấy, thả cho con ong ra, chẳng cũng sướng sao!
其廿九:作縣官,每日打鼓退堂時,不亦快哉!
29. Làm quan huyện, hàng ngày vào lúc đánh trống tan hầu, chẳng cũng sướng sao!
其三十:看人風箏斷,不亦快哉!
30. Xem người ta thả diều đứt dây, chẳng cũng sướng sao!
其卅一:看野燒,不亦快哉!
31. Xem ma trơi, chẳng cũng sướng sao!
其卅二:還債畢,不亦快哉!
32. Trả nợ xong, chẳng cũng sướng sao!
其卅三:讀虯髯客傳,不亦快哉!
33. Đọc truyện “Khách râu quăn” (*02), chẳng cũng sướng sao!
(*02) Tức “Cầu Nhiêm khách truyện” trong Thái Bình quảng kí 太平廣記 của Đỗ Quang Đình 杜光庭 (850-933).
Kim Thánh Thán 金聖嘆 (1608-1661)
Nhượng Tống (1906-1949) dịch